Trong những năm qua lao động xuất khẩu đã và đang có chiều hướng phát triển tích cực, nó không những tạo cơ hội nâng cao nguồn thu nhập của cá nhân người lao động mà còn góp phần không nhỏ đến nền kinh tế của quốc gia. Thế những một thực trạng đang diễn ra đó là người Việt Nam đang làm việc tại Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản…không muốn quay về nước, vậy lý do nào dẫn đến điều này, hãy theo dõi bài viết sau đây để tìm được câu trả lời cho mình nhé!
Lao động trở về nước khó tìm được việc phù hợp
Hiện nay số lượng hồ sơ đăng ký đi xuất khẩu lao động nước ngoài ngày càng tăng, điều đó chứng tỏ sự quan tâm cũng như niềm tin của mọi người với thị trường này. Một số người lao động ở Việt Nam không có việc làm nhưng khi đi xuất khẩu lao động họ không những tìm được một công việc phù hợp với mình mà còn nhận được một mức lương khá cao, giúp cho cuộc sống gia đình của họ ở quê nhà khấm khá hơn.
Thế nhưng sau khi hết thời hạn nhiều người lao động trở về nước lại không tìm được công việc như họ đã làm khi đi xuất khẩu lao động. Bản thân họ vì muốn trang trải cuộc sống mà phải tìm một công việc nhỏ nào đó hoặc nếu có tìm được một công việc đúng ngành nghề nhưng với công nghệ sản xuất còn lạc hậu của các doanh nghiệp trong nước khiến cho người lao động không phát huy được hết khả năng làm việc của mình.
Không tìm được một công việc phù hợp, thu nhập thấp và cơ hội quay trở lại cũng khó khăn, đó là những lý do khiến cho người lao động xuất khẩu không muốn trở về nước. Mặc dù đi lao động xuất khẩu, nhiều người có tích cho mình một chút vốn liếng để làm ăn, nhưng để trả nợ và mưu sinh họ rất dễ rơi vào tình cảnh trắng tay.
Cung cầu vẫn đang tìm nhau
Theo thống kê cho thấy mỗi năm trung bình có khoảng 80.000 lao động đi làm việc tại nước ngoài, chiếm 5% số lao động được giải quyết việc làm hàng năm, song Việt Nam vẫn chưa hề đưa ra một chính sách cụ thể nào để giúp người lao động có thể tái hòa nhập cũng như tận dụng được kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động nước ngoài sau khi trở về.
“Trong Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hiện chỉ có điều 59 và 60 ghi chung chung là “khuyến khích các doanh nghiệp tiếp nhận tuyển dụng người lao động về nước vào làm việc và khuyến khích tạo việc làm”. Thế nhưng quy định này vẫn chỉ đề cập chung chung và chưa có một văn bản cụ thể thì sẽ rất khó để triển khai.
Chưa dừng lại ở đó các tỉnh, thành hiện nay cũng không thể nắm được hết số lượng lao động đi xuất khẩu lao động về nước, chưa có bất kỳ một chính sách nào hỗ trợ nhóm đối tượng này, chủ yếu là do chính bản thân họ tự tìm công việc cho mình. Điều đó cho thấy các doanh nghiệp đang thực sự lãng phí một nguồn nhân lực khổng lồ bởi trên thực tế họ đang rất cần những người có kinh nghiệm như vậy.
Muốn khắc phục được vấn đề này thì Việt Nam cần phải chủ động thành lập các đơn vị, dịch vụ hỗ trợ lao động sau khi về nước tái hòa nhập, tăng cường kết nối thông tin thị trường lao động, đào tạo chuyển đổi kỹ năng nghề đã làm tại nước ngoài để người lao động có thể làm việc hiệu quả trong nước.
Thùy Duyên